Sau đây là một số phân tích, nhận xét về mô hình chào giá tự do (Price Based Pool - PBP) và mô hình chào giá theo chi phí (Cost Based Pool - CBP) như sau:
Các mô hình thị trường xem xét: Các mô hình được đưa ra phân tích đánh giá là mô hình chào giá tự do và mô hình chào giá theo chi phí. Cả hai mô hình đều thuộc loại thị trường điều độ tập trung (thị trường toàn phần –Gross Pool), sử dụng giá biên hệ thống (System Marginal Price – SMP) là giá thị trường. Dạng thị trường này là thị trường ngày tới (Day –Ahead) và được thanh toán theo hợp đồng CfD.
A. Mô hình chào giá tự do Price Based Pool (PBP)
• Thành phần tham gia bao gồm tất cả các nhà máy nhiệt,thủy điện
• Chào giá toàn phần, bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi
• Doanh thu của đơn vị phát điện gồm 2 thành phần, theo hợp đồng CfD và theo thị trường:
Doanh thu = Giá hợp đồng * SL hợp đồng + Giá thị trường*(SL thực phát – SL hợp đồng)
• Sử dụng ở Singapore, Úc, New Zealand, Philipine, thị trường California cũ, thị trường Anh cũ, thị trường Ontario (Canada) cũ.
• Chỉ Nhiệt điện tham gia trực tiếp vào thị trường, thủy điện được điều độ tập trung thông qua MSO
B. Mô hình chào giá theo chi phí Cost Based Pool (CBP)
• Chỉ chào giá trong phạm vi chi phí biên biến đổi
• Ngoài chi phí năng lượng, Đơn vị phát điện được thanh toán chi phí công suất theo độ sẵn sàng. Doanh thu của đơn vị phát điện có hợp đồng CfD cho phần năng lượng gồm 3 thành phần:
Doanh thu = Chi phí công suất * Min(Công suất thực tế/Công suất hợp đồng, 1)
• Chỉ chào giá trong phạm vi chi phí biên biến đổi
• Ngoài chi phí năng lượng, Đơn vị phát điện được thanh toán chi phí công suất theo độ sẵn sàng. Doanh thu của đơn vị phát điện có hợp đồng CfD cho phần năng lượng gồm 3 thành phần:
Doanh thu = Chi phí công suất * Min(Công suất thực tế/Công suất hợp đồng, 1)
+ Chi phí năng lượng * SL hợp đồng
+ Giá thị trường*(SL thực phát – SL hợp đồng)
• Sử dụng ở Chile, Argentina, Brazil, Columbia, Ontario hiện nay, Hàn Quốc.
• Sử dụng ở Chile, Argentina, Brazil, Columbia, Ontario hiện nay, Hàn Quốc.
Thực tế vận hành các thị trường sử dụng mô hình PBPs và CBPs:
Thực tế vận hành các mô hình thị trường cho kết quả rất khác so với lý thuyết. Kinh nghiệm sử dụng mô hình PBP cho thấy:
- Trong khi mức giá trung bình lẽ ra phải như nhau ở PBP cũng như CBP, thì thực tế cho thấy PBP có giá thị trường giao động mạnh, điều này ít được khách hàng chấp nhận hơn CBP.
- Trong mô hình PBP, nhằm đảm bảo chi phí cố định cho mình, các đơn vị phát điện sẽ tìm cách đẩy giá lên rất cao. Điều này sẽ làm cơ quan điều tiết và khách hàng không chấp nhận được mức giá quá cao, do đó giá trần bị ấn định có thể thấp hơn mức giá yêu cầu. Trường hợp này hình thành việc mua bán công suất (như ở thị trường Đông Bắc Hoa Kỳ, Ontario - Canada) nhằm đảm bảo tài chính cho đơn vị phát điện, dẫn đến đẩy thị trường dịch chuyển từ mô hình PBP sang CBP.
- Nguy cơ và khả năng thực hiện lũng đoạn thị trường là rất cao trong mô hình PBP. Đơn vị phát điện toàn quyền định đoạt giá chào của mình và có thể đẩy giá lên cao (đạt giá trần) hơn trong mô hình CBP.
Điều này không có nghĩa là PBP không thành công trong thực tế, như kinh nghiệm của rất nhiều thị trường đã minh chứng. Mặc dù vậy cần xem xét trong từng hoàn cảnh đặc thù của mỗi thị trường.
Kinh nghiệm sử dụng mô hình CBP chủ yếu là ở Trung và Nam châu Mỹ. Bằng chứng cho thấy CBP khá thành công trong việc giữ giá thấp và tiếp tục thu hút đầu tư. Mặc dù vậy, khủng hoảng mùa khô 1998-1999 ở thị trường CBP Chilê cho thấy giá thị trường được điều tiết thực tế đã không giải quyết được vấn đề khi như mức nước sụt giảm. Hậu quả là phải bắt buộc sa thải phụ tải khi khách hàng không giảm nhu cầu tiêu thụ khi nguồn cung cấp không đảm bảo. Với PBP, giá bán buôn sẽ được trông đợi để tăng nhằm để khách hàng tự điều chỉnh, cân đối nguồn cung cấp cũng như tự nguyện giảm nhu cầu sử dụng.
Phân tích lựa chọn mô hình cho Việt Nam
Để xác định mô hình nào là phù hợp cho Việt Nam, cần xem xét đến các mục tiêu sau:
- Thu hút đầu tư trong lĩnh vực phát điện để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng cao
- Tính hiệu quả và khả năng kiểm soát lũng đoạn thị trường
- Khả năng chuyển đổi và áp dụng thực tiễn.
Với cả hai mô hình PBP và CBP, hầu hết các đơn vị phát điện mới ở Việt Nam sẽ được bảo đảm bằng hợp đồng dài hạn, qua đó tránh được các rủi ro trên thị trường.
Tuy vậy, đối với CBP, phần chi phí cố định đã được đảm bảo thông qua hợp đồng 2 thành phần mua công suất và mua điện năng. PBP phụ thuộc vào số % sản lượng được thỏa thuận trong hợp đồng CfD để đảm bảo lợi nhuận, do đó nhà đầu tư bắt buộc phải bù đắp bằng cách tăng giá điện nhằm bảo đảm tài chính cho mình. Điều này có nguy cơ dẫn đến lũng đoạn thị trường khi có thiếu công suất, đồng thời gây mất ổn định cho giá thị trường.
CBP sẽ đảm bảo được thu hút đầu tư khi đảm bảo được lợi nhuận cho nhà đầu tư, đồng thời giữ giá thị trường ổn định hơn.
(Sưu tầm)